HUA Edu
  • Trang Chủ
  • Liên Hệ
  • Giới Thiệu
  • Kỹ Thuật Trồng Cây
No Result
View All Result
HUA Edu
  • Trang Chủ
  • Liên Hệ
  • Giới Thiệu
  • Kỹ Thuật Trồng Cây
No Result
View All Result
HUA Edu
No Result
View All Result
Home Học tập

Top 10+ Bài Phân tích Đất nước hay đạt điểm cao

Quốc Thanh by Quốc Thanh
13/12/2022
in Học tập
0
Bài Phân tích Đất nước

Bài Phân tích Đất nước

0
SHARES
66
VIEWS
Share on FacebookShare on Twitter

Bài phân tích bài đất nước con người cảm nhận được đây chính là địa điểm hội tụ kết tinh, công sức và khát vọng của nhân dân. Vẻ đẹp quốc gia được phát hiện trên nhiều bình diện lịch sử, địa lý, văn hóa, truyền thống. Qua đấy nhắc nhở trách nhiệm của mỗi người so với việc bảo tồn và giữ gìn đất nước. Vậy phía dưới là mẫu phân tích đất nước hay nhất, mời các bạn cùng đón đọc.

Table of Contents

  • Phân tích 9 câu đầu Đất nước – dàn ý
  • 2. thông tin 9 câu đầu bài đất nước
  • 3. đo đạt 9 câu đầu bài đất nước
  • 4. đo đạt đất nước đoạn 1
  • 5. Phân tích 9 câu đầu đất nước ngắn gọn
  • 6. phân tích 9 câu đầu đất nước – mẫu 1
  • 7. phân tích 9 câu đầu đất nước – mẫu 2
  • 8. đo đạt 9 câu đầu đất nước – mẫu 3
  • 9. phân tích đất nước 9 câu đầu
  • 10. đo đạt 9 câu đầu đất nước học sinh giỏi
  • 11. Cảm nhận 9 câu thơ đầu bài đất nước
  • 12.Phân tích Đất nước hay đạt học sinh giỏi
  • Tổng kết

Phân tích 9 câu đầu Đất nước – dàn ý

A. Mở bài:

– Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, trường ca mặt tiền khát vọng và chương quốc gia.

– Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ với phong cách thơ mang đậm chất trữ tình chính luận.

– “Đất Nước” được trích từ chương V, trường ca mặt tiền khát vọng, sáng tác trong thời kỳ chiến trường Miền Nam vô cùng ác liệt. “Đất Nước” ra đời với mục tiêu khơi gợi tình yêu nước thẳm sâu, kêu gọi giới trẻ miền Nam hòa mình vào cuộc tranh đấu của dân tộc.

B. Thân bài:

– Luận điểm 1: đất nước có từ bao giờ?

+ Câu thơ trước tiên chính là câu giải đáp cho câu hỏi ấy: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi” đất nước là những thứ thân thuộc, gần gũi, gắn bó với mỗi con người, ở trong mỗi chúng ta từ khi phôi thai. Thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”

+ Tác giả cảm nhận đất nước bằng chiều sâu văn hóa – lịch sử và cuộc sống bình thường của mỗi chúng ta qua cụm từ “ngày xửa ngày xưa” à gợi những bài học về đạo lý làm người qua các câu chuyện cổ tích thấm đượm nghĩa tình.

– Luận điểm 2: công đoạn khởi tạo đất nước?

+ bắt tay vào làm với phong tục ăn trầu gợi về hình ảnh người bà quen thuộc, gợi câu chuyện về sự tích trầu cau, nhắn nhủ nghĩa tình anh em sâu đậm, tình cảm vợ chồng nhân nghĩa thủy chung.

+ Hình ảnh “cây tre” còn gợi tả lên hình ảnh của chúng ta đất nước ta, cần cù, chịu khó, chịu thương, siêng năng. “Lớn lên” có nghĩa là nói công đoạn trưởng thành của đất nước, nói lớn lên trong chiến tranh nghĩa là nói truyền thống chống giặc kiên cường, bền bỉ.

+ Tập quán bới tóc sau đầu để chú tâm thực hiện công việc, gợi câu ca dao bình trị dạt dào thương nhớ. Nhắc nhở về tình cảm vợ chồng sắc son, sâu nặng qua hình ảnh: “gừng cay”, “muối mặn”.

+ Tái hiện nền văn hóa đất nước ta chỉ bằng một câu thơ đơn sơ tuy nhiên đầy dụng ý: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Nghệ thuật liệt kê, cùng cách ngắt nhịp liên tục thể hiện truyền thống lao động cần cù, cách ăn cách ở trong sinh hoạt.

+ Nguyễn Khoa Điềm thâu tóm toàn bộ bằng một tư tưởng duy nhất: “Đất Nước có từ ngày đó…”. Dấu “…” cuối câu chính là cách thức làm tu từ lặng im, lời dẫu hết nhưng ý vẫn còn, vẫn nung nấu và sục sôi.

=> đất nước được hình thành luôn đi chung với văn hóa, lối sống, phong tục tập quán của người đất nước ta, gắn liền với đời sống gia đình. Những gì làm nên đất nước cũng đã kết tinh thành linh hồn dân tộc. quốc gia bởi vậy hiện lên vừa thiêng liêng, tôn kính lại gần gũi thiết tha.

C. Kết bài:

Giọng thơ trữ tình chính luận, khi căng, khi chùng, khi tha thiết, khi lại cuồn cuộn nỗi niềm, đã thể hiện được tinh thần chủ đạo của bài thơ thông qua các chất liệu văn hóa, văn học dân gian: “Đất Nước của nhân dân”. Vì vậy, đoạn thơ không chỉ trữ tình mà đầy sức chiến đấu.

Phân tích 9 câu đầu bài Đất nước

2. thông tin 9 câu đầu bài đất nước

– Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi: đất nước là những thứ thân thuộc, gần gũi, gắn bó với mỗi chúng ta, ở trong mỗi con người từ khi sinh ra. → Thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”

– Cảm nhận đất nước bằng chiều sâu văn hóa – lịch sử và cuộc sống bình thường của mỗi con người qua cụm từ ngày xửa ngày xưa: gợi những bài học về đạo lý làm người qua các câu chuyện cổ tích.

– quá trình hình thành Đất Nước:

+ bắt đầu với phong tục ăn trầu gợi về hình ảnh người bà quen thuộc, gợi câu chuyện về sự tích trầu cau, nhắn nhủ nghĩa tình anh em sâu đậm, tình cảm vợ chồng nhân nghĩa thủy chung.

+ Cây tre còn gợi lên hình ảnh của con người Việt Nam, cần cù, chịu khó, chịu thương, chịu khó. Lớn lên nghĩa là nói công đoạn trưởng thành của đất nước trong chiến tranh → Truyền thống chống giặc ngoại xâm kiên cường, bền bỉ.

+ Tập quán bới tóc sau đầu để chú tâm thực hiện công việc, gợi câu ca dao Bình Trị dạt dào thương nhớ.

+ Gừng cay muối mặn: Nhắc nhở về tình cảm vợ chồng sâu nặng.

+ liệt kê, cùng cách ngắt nhịp liên tục Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng: truyền thống lao động cần cù, cách ăn cách ở trong sinh hoạt. → Tái hiện nền văn hóa đất nước ta chỉ bằng một câu đơn sơ.

⇒ quốc gia được khởi tạo gắn liền với văn hóa, lối sống, phong tục tập quán của người đất nước ta, luôn đi chung với đời sống gia đình. Những gì làm nên đất nước cũng đã kết tinh thành linh hồn dân tộc từ rất sớm. đất nước vì thế mà hiện lên vừa thiêng liêng, tôn kính lại gần gũi thiết tha, da diết.

3. đo đạt 9 câu đầu bài đất nước

quốc gia – Hai tiếng thiêng liêng gợi lên lòng tự hào dân tộc trong mỗi chúng ta. có khả năng nói viết về đề tài quốc gia luôn là niềm cảm hứng bất tận của các nhà thơ, nhà văn. đất nước trong mỗi tác phẩm đều mang những phong vị rất đáng chú ý và rất riêng. Một trong những tác phẩm đặc biệt và để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc có thể kể đến tác phẩm quốc gia của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Chỉ với 9 câu thơ đầu tác giả đã cho người coi cảm nhận được quá trình hình thành đất nước bằng cả chiều sâu văn hóa – lịch sử.

Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
quốc gia bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
quốc gia lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
quốc gia có từ ngày đó…

quốc gia nằm trong trái tim mỗi chúng ta, dù đi xa, đi đến đâu thì những thành quả tồn tại chẳng bao giờ Đem lại cảm giác xa lạ trái lại nó đã trở thành một nguồn gắn kết bền vững, tha thiết. Qua bao thế hệ, quốc gia lại càng vững bền hơn qua sự dựng xây, bồi đắp của chính những chúng ta Đất Việt. Khi đứng trước đất nước thiêng liêng nhà thơ thể hiện cảm xúc dào dạt, trái tim rung động đầy thành kính. “Đất Nước” được viết hoa và lặp lại nhiều trong từng dòng thơ đến hết bài chính là dụng ý của nhà thơ cho thấy sự trang trọng, niềm tự hào lớn lao dành cho nguồn cội của mình. Nhà thơ hay chính con người cũng chẳng ai biết chính xác là quốc gia có từ bao giờ, chỉ biết rằng khi ta sinh ra, lớn lên quốc gia đã có rồi. Nguyễn Khoa Điềm đi tìm lời giải thích đất nước có từ khi nào thì ông chợt suy ngẫm và nhớ về những điều ngày xửa ngày xưa, đấy là: trong những câu truyện khi xưa mẹ thường kể, trong từng miếng trầu thân thuộc bà hay ăn đã có hình bóng của đất nước. Hình ảnh hiện về luôn giản dị, mộc mạc đến thế để nói về đất nước thiêng liêng, lớn lao thì chỉ có Nguyễn Khoa Điềm mới tài tình trong cách miêu tả như thế.Năm tháng cổ xưa, ca dao tục ngữ kết tinh trong mỗi tâm hồn Việt luôn có đất nước đi cùng. Và hơn nữa qua những năm tháng chiến tranh đau thương, đất nước cũng đồng hành cùng con người “lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Tình yêu thương, lòng thủy chung son sắt của người dân đất Việt, dân tộc Lạc Hồng luôn được Đât Nước mang theo cùng dù ở bất cứ đâu, thời điểm nào.

nếu như nhà thơ gắn quốc gia trong hình ảnh miếng trầu bà ăn thì không quên những phong tục khác như : “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, “cái kèo cái cột thành tên”. Chắc sẽ chẳng nhà thơ nào đi tìm về những điều xưa cũ mà chân phương như thế này, riêng Nguyễn Khoa Điềm thì khác, ông tỉ mỉ cho người coi thấy được một quốc gia của nhân dân nghìn năm hùng vĩ. Nào là búi tóc sau đầu của mẹ, từng cái kèo cái cột trầy trước theo thời gian in hằn tên dựng nên tổ ấm cho gia đình. Tác giả không thể quên công ơn, nhìn vào nỗi vất vả một nắng hai sương, tần tảo sớm hôm để Đem lại hạt gạo trắng tinh tuơm cho bữa con thơm ngon. đất nước, một phần thân thương mà nhà thơ nghĩ về.

chốt lại, qua 9 câu thơ đầu bài đất nước Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh quốc gia bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp. Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.

4. đo đạt đất nước đoạn 1

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ tại nước ta trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước. Ông đã giúp sức rất nhiều tác phẩm đặc sắc cho nền văn học nước nhà, trong đó phải kể đến bài thơ “Đất Nước” trích phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tác phẩm nói lên nhiều sự tồn tại của quốc gia ở chiều sâu không gian cũng như chiều rộng của thời gian. đáng chú ý ở đoạn đầu bài thơ đất nước, tác giả đã cho bạn đọc thấy được sự thiêng liêng tuy nhiên rất đỗi bình dị của đất nước, thể hiện khái niệm nguồn cội một cách đặc sắc.

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.”

Câu thơ mở đầu chính là lời khẳng định quốc gia đã có từ rất lâu, tồn tại như một điều hiển nhiên với chiều sâu cội nguồn và sự hình thành tăng trưởng suốt bốn ngàn năm văn hiến. đất nước hiện lên vô cùng thân quen và gần gũi trong những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa”, gợi nhớ lại những kỷ niệm của mỗi người. Bởi trong những câu chuyện mẹ kẻ là những bài học đạo lý dạy ta cách làm người, biết phân biệt thiện ác, sống phải biết ơn, thủy chung son sắc… Tác giả sử dụng những ngôn từ tự nhiên, giản dị, không tráng lệ hoa mỹ tuy nhiên vấn gây độc đáo với người đọc.

Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận quốc gia luôn đi chung với bản sắc văn hóa, phong tục tập quán lâu đời của dân tộc:

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”

“Miếng trầu bà ăn” chính là miếng trầu tình nghĩa về tình cảm vợ chồng, tình cảm anh em gắn bó trong câu chuyện cổ tích “Sự tích trầu cau”. Cũng từ đấy, “miếng trầu” tượng trưng cho sự thủy chung son sắc, hình ảnh bắt buộc phải làm trong những lễ cưới truyền thống của đất nước ta.

“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Những năm tháng TCN, từ thời Bà Trưng – Bà Triệu Việt Nam đã thật tự tin đứng lên khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm. Hay hình ảnh Thánh Gióng nhổ lũy tre để đánh giặc. Cây tre cũng chính là biểu tượng của người nông dân nước ta, hiền lành chăm chỉ tuy nhiên cũng rất kiên cường bất khuất.

“Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”

Vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, mộc mạc, giản dị lại nữ tính thuần hậu rất riêng với mái tóc được búi ra sau đầu. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được tác giả đặt một cách khéo léo để thể hiện ân tình của con người, sự chung thủy của người vợ người chồng.

“Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

Câu thơ gợi nhắc cho người độc về phong tục làm nhà cổ của người Việt Nam ngày xưa. Những chiếc kèo cột giằng giữa nhau để tạo điều kiện cho ngôi nhà thêm bền chặt, vững chãi. Ngôi nhà là tổ ấm của mọi gia đình, địa điểm để các thành viên được đoàn tụ bên nhau.

Và cả truyền thống lao động siêng năng, chăm chỉ, chịu thương siêng năng của dân tộc. Câu thành ngữ “một nắng hai sương” gợi lên sự cần cù của cha ông ta trong những ngày tháng chông gai. Hạt gạo làm ra là biết bao mồ hôi công sức dầm mưa dãi nắng, xay giã giần sàng mới đạt được giá trị.

Và sau tất cả, Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại “Đất Nước có từ ngày đó…”, ta không biết và tác giả cũng không biết quốc gia có từ khi nào. Chỉ biết rằng đó là ngày mẹ kể những câu chuyện cổ tích, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, khi con người biết làm ra lương thực, khi có các phong tục búi tóc ăn trầu, khi chúng ta biết yêu thương nhau, chung thủy sắt son cùng nhau….

quốc gia đối với tác giả Nguyễn Khoa Điềm là những điều giản dị, mộc mạc và gần gũi. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo và thiêng liêng về cuộc nguồn của dân tộc. Qua đó nhắc nhở chúng ta hãy luôn trân trọng, gìn giữ và tăng trưởng những nét đẹp trong văn hóa, truyền thống của người nước ta.

5. Phân tích 9 câu đầu đất nước ngắn gọn

quốc gia luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn địa điểm và của bao triệu trái tim con người. quốc gia đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca linh hoạt và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là một trong những vần thơ như thế – dung dị, mộc mạc nhưng rất dỗi sâu sắc. đặc biệt, trong chín câu thơ đầu đã thể hiện ra được nguồn gốc sâu xa của mảnh đất quê hương tình nghĩa.

mở đầu là những lời bình dị nhưng hàm súc: “Khi ta lớn lên, quốc gia đã có rồi”. đất nước thành bậc tiền nhân. Mọi người đều được nuôi dưỡng từ đất nước… nhắc lại điệp khúc “ngày xửa ngày xưa…”, tác giả mong muốn chứng tỏ quốc gia khởi tạo từ rất lâu, đất nước có trong từng lời mẹ kể.

luôn đi chung với sinh hoạt gia đình: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”. Tứ thơ này làm sống lại nhiều câu tục ngữ, ca dao và truyện Trầu cau tình nghĩa. Qua hình ảnh “miếng trầu”, Nguyễn Khoa Điềm “nhân dân hóa” thơ mình và có thêm một bằng chứng về đất nước khởi tạo từ xa xưa. tuy nhiên, quốc gia chỉ lớn lên với truyền thống: “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” và công đoạn hình thành nhiều phong tục, tập quán:

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Nguyễn Khoa Điềm thật sự xúc động khi nói đến:“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. đấy lời ngợi ca tình nghĩa, thuỷ chung trong gian lao. Chữ “thương” giúp thơ ông gần văn học bình dân. “Khi ta lớn lên quốc gia đã có rồi”- điều ấy, hiển nhiên như khi ta lớn lên đã có ông bà, cha mẹ… quốc gia gắn bó, thân thiết như người ruột thịt và bao hoạt động lao động khác:

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Tứ thơ “cái kèo, cái cột thành tên” còn gợi tập tục đặt tên mộc mạc để mong sự bình yên. nước ta gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Làm nên hạt gạo trắng thơm phải trải qua nhiều công việc chuẩn bị, phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt. quá trình hình thành đất nước cũng đau đớn như chuyện nhân loại hoài thai, sinh nở.

Từ những lời phân tích trên đây, có khả năng thấy Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác một cách triệt để vốn văn hoá dân gian. Hàng loạt câu tục ngữ, ca dao, truyền thuyết, cổ tích, phong tục, tập quán đã được tái tạo, sáng tạo lại. không chỉ hay ở phương diện câu chữ, cấu trúc và lời kết đoạn đã gây được ấn tượng. “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, đất nước bắt đầu, đất nước lớn lên… chặng đường nào cũng song hành với cuộc sống nhân dân. Tác giả nêu nhiều chứng cứ để làm rõ ràng kết luận: “Đất Nước có từ ngày đó…” – từ “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. trong suốt chặng đường ấy, đất nước gắn bó với mọi gia đình và từng cá nhân. đó là cơ sở vững chắc để tác giả tiếp tục khai triển tư tưởng đất nước này là đất nước Nhân dân ở 3 khổ thơ sau.

6. phân tích 9 câu đầu đất nước – mẫu 1

Cảm hứng về đất nước, về tầm vóc đáng tự hào của Đây là một cảm hứng vốn quen thuộc cùa thơ ca hiện đại giai đoạn từ 1945 đến 1975. Bất cứ ai cũng nhận ra rằng từ sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc, tổ quốc đã thực sự lớn mạnh của Thánh Gióng. đó chính là hiện thực, là tiền đề thẩm mĩ cất cánh cho những dòng cảm giác đáng trân trọng về vóc dáng của con người đất nước ta, đất nước đất nước ta. Là một nhà thơ trẻ, trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước, nặng tình với non sông, người trí thức Nguyễn Khoa Điềm cũng góp riêng một tiếng nói của mình để khẳng định sự lớn dậy ấy. Với 9 câu thơ mở bài bài thơ “Đất nước” trích trường ca “Mặt đường khát vọng”, Nguyễn Khoa Điềm đã có những cảm nhận hiện đại về đất nước.

Điểm rất mới của Nguyễn Khoa Điềm là nhắc đến một đề tài rất khái quát, nếu không muốn nói là trừu tượng, chủ đề quốc gia, tuy nhiên những hình ảnh thơ, chất liệu cụ để dựng nên tầm vóc đó lại rất cụ thể, gần gũi. Để nói lên sự hiện hữu cùa đất nước này ở chiều sâu của thời gian, chiều rộng của không gian, trong đoạn mở đầu, ông đã tập trung dùng rất nhiều hình ảnh hết sức cụ thể, gần gũi đầy thân thương nhưng lại có sức liên tưởng mạnh mẽ và tính khái quát cao. đặc biệt, ông nối kết để tạo nên mạch thơ nói về sự tồn tại của đất nước bằng điệp từ có. Điệp từ này đã nối kết những ảnh chụp tưởng chẳng ảnh hưởng gì với nhau thành một khối không thể tách rời, khẳng định sự tồn tại vừa có tính truyền thống vừa đầy ân tình sâu nặng của quốc gia như một nét riêng không thể hòa lẫn. Ta hãy nghe nhà thơ bộc lộ suy nghĩ của mình.

Khi ta lớn lên quốc gia đã có rồi

quốc gia có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

quốc gia bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

quốc gia lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng

đất nước có từ ngày đấy…

Đọc đoạn thơ, ta không thế không lưu ý đến những ảnh chụp thơ đầy sức tưởng tưởng của tác giả về sự hiện hữu của đất nước. Mỗi hình ảnh lại gợi một sự tồn tại nhằm khẳng định nét riêng không trộn lẫn của quốc gia này. “Ngày xửa ngày xưa” một ngôn ngữ mở bài cho những câu chuyện cổ tích; hình ảnh người bà – nhà thơ mong muốn nói rằng quốc gia này đã xuất hiện từ lâu đời, tồn tại từ thuở “Mang gươm đi giữ nước – ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”, cái thuở Nam quốc sơn hà. Từ đó, quốc gia lớn lên với những phong tục, cốt cách của một dân tộc đậm tình, đậm nghĩa nhưng cũng chuẩn bị và sẵn sàng xả thân khi Tổ quốc lâm nguy. Thân thương gần gũi biết bao khi đất nước tồn tại vừa thật nhỏ nhoi, lại vừa thật tình cảm nơi miếng trầu bây giờ bà ăn. Ở đây, sức liên tưởng thật thông minh, đầy ắp những nét đẹp về phong tục, tập quán, bản sắc quê hương:

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Ở đó, có những bàn tay, những trái tim, những con người cần cù chịu thương siêng năng, lam lũ cần cù, một nắng hai sương. đáng chú ý ở đó, có sự tồn tụ hiện hữu có khi phải được đánh đổi bằng máu xương, mồ hôi, nước mắt của cả một dân tộc luôn cần phải rũ bùn đứng dậy tự khẳng định mình.

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng

đất nước có từ ngày đấy…

Cũng trong đoạn thơ này, ngoài hình ảnh là việc dùng những từ xưng hô tạo một quan hệ tình cảm đầy máu thịt của cộng đồng người Việt. Dường như với cách gọi này, tất cả như quây quần, hội tụ, đoàn kết, châu tuần chung một dòng máu, một huyết thống Rồng – Tiên. đấy là từ mẹ, từ cha, từ bà, dân mình quá đỗi ngọt ngào trong những cách xưng hô đằm thắm, mang dẩy bản sắc đất nước ta ấy. Chúng tạo nên một phong vị, một sức gợi đầy thẩm mĩ về quốc gia, con người đất nước ta, thân ái, thủy chung, giàu truyền thống, giàu tình nghĩa, đạo lí làm người. Ở đoạn hai, tác giả lại ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về những điều đã tạo nên đất nước, hướng người đọc đến những định nghĩa rất riêng rất chung về quốc gia.

có thể khẳng định rằng, sức mạnh của đoạn thơ là do có rất nhiều hình ảnh, phong phú, phong phú. toàn bộ lại được diễn tả với một giọng thơ hết sức tự nhiên, không ồn ào của hình thức thơ – văn xuôi, thơ tự do khiến cho hiệu quả thẩm mĩ càng cao. Điều đáng nói là từ những ảnh chụp đấy, với sức suy tưởng sợ của một trí thức trẻ năng lực gợi mở, vang ngân, liên tưởng của thơ càng cao. Nó đủ sức để khái quát một cách đầy đủ tầm vóc, thế đứng, dáng đứng của một đất nước trong chiều hướng ấy thật trầm lắng, đáng tự hào về chiều sâu lịch sứ, chiều dài và chiều sâu của thời đại. đó là một khối thống nhất của quá khứ, hiện tại, tương lai. Một vẻ đẹp nói như Tố Hữu:

Ta đứng dây mắt nhìn bốn hướng

Trông lại nghìn xưa trông tới mai sau

Trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu.

Vậy là quốc gia có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung. Lịch sử quốc gia thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết mấy. Đoạn trích đất nước của trường ca mặt đường khát vọng xứng đáng là một khúc ca sử thi, hoành tráng đầy chất thơ về quê hương, đất nước và con người nước ta.

7. phân tích 9 câu đầu đất nước – mẫu 2

quốc gia, đã từ lâu, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Được khơi nguồn từ đề tài quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có cho mình một lối đi riêng. Đoạn trích “Đất Nước” là sự kết tinh của những thông minh dộc đáo, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi quốc gia có từ bao giờ:

Khi ta lớn lên quốc gia đã có rồi

đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.

đất nước bắt tay vào làm với miếng trầu bây giờ bà ăn

quốc gia lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

quốc gia có từ ngày đó…

muốn hiểu về đất nước nhưng “khi ta lớn lên quốc gia đã có rồi”: lời thơ khẳng định đất nước ra đời từ rất lâu như ta thường bảo 4000 năm lịch sử. Câu thơ cũng khẳng định sự trường tồn của đất nước sau bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu lần đánh giặc ngoại xâm, chống lại nội thù để bảo vệ quốc gia. tuy nhiên câu thơ cũng nói lên nỗi lòng băn khoăn của nhà thơ vì làm sao hiểu được quốc gia khi đất nước đã có từ lâu, đã cách ta quá xa, đã ” có từ ngày xửa ngày xưa…”: một cụm từ vô cùng thân thuộc, thân thương vì ai trong con người không từng được đắm mình trong những câu chuyện cổ tích thần tiên” mẹ thường hay kể”. Những câu chuyện kể, những lời ru của mẹ đưa con về với đất nước yêu dấu.

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm khiến con nhớ đến câu chuyện cảm động “Sự tích trầu cau” mẹ kể con nghe về tình nghĩa gia đình thắm thiết, ven tròn, hoà quyện nhau như màu đỏ huyết thống thiêng liêng. đấy chính là một nền tảng để xây dựng gia đình, để khởi đầu quốc gia hay đây cũng chính là bài học đầu tiên về quốc gia. Miếng trầu bình thường bà vẫn ăn thường nhật sao bỗng dưng biến thành thiêng liêng, thấp thoáng đâu đó dáng hình quốc gia qua tập tục ăn trầu thân quen.

Hình ảnh cây tre trong câu thơ” đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” con đã từng gặp trong “Sự tích Thánh Gióng” khi cậu bé chỉ mới 3 tuổi đã vươn vai thành người chiến sĩ nhổ tre, đánh giặc thù, bảo vệ bờ cõi. Cây tre hiền hoà hằng ngày ta vẫn thấy trong xóm làng cho ta những vật dụng và bóng mát, thế nhưng cây tre đã từng là vũ khí theo suốt con đường cha ông ta đánh giặc để giữ cho con cháu hôm nay quốc gia này. Truyền thống đấu tranh bất khuất của người xưa dẫu ko có vũ khí tương xứng nhưng đã để lại cho con cháu một bài học: mong muốn quốc gia lớn lên vững vàng thì dân mình phải biết trồng tre để chuẩn bị thành vũ khí đánh giặc. Bài học lịch sử quý giá này cháu con luôn ghi nhớ và đang vận dụng trong những ngày đánh Mỹ ác liệt để bảo vệ quốc gia với “gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” (Thép mới)

Mỗi một đất nước đều có riêng những phong tục tập quán và dân tộc ta cũng vậy. Hình ảnh” tóc mẹ thì bới sau đầu” đã nói lên một nét đẹp của phong tục nước ta ta từ xưa còn lưu lại đến bây giờ dù đất nước đã phải trải qua bao năm bị ngoại bang đô hộ và đồng hoá tuy nhiên dân tộc này vẫn giữ được tập quán riêng của đất nước mình.

có được lớn lên từ mái ấm gia đình, từ tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ ta mới thấy câu ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau” là lời nhắn nhủ, dặn dò quý giá biết bao. Với Nguyễn Khoa Điềm “cha mẹ thương nhau bằng gừng ay muối mặn” để con được hưởng hạnh phúc đầy đủ, cho con hiểu thêm một nét đẹp đạo lí dân tộc là tình nghĩa luôn thuỷ chung, son sắc.

Từ cái nhà con ở khi “cái kèo, cái cột thành tên” đến hạt gạo con ăn”phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàn” ta hiểu được bao thế hệ mẹc ha đã lao động vất vả, chắt chiu, dành dụm để tạo ra cuộc sống cho những đứa con nên người và góp một phần dựng xây quốc gia. tất cả chính là đất nước. Thế thì đất nước ko phải đâu xa lạ, vô hình mà là những vật dụng, những hình ảnh thường nhật ta vẫn thấy quanh đây rất đỗi thân quen đã từng gắn bó với ta từ thời thơ bé khi bên ta có bà, có mẹ , có cha. nhưng chính những câu chuyện cổ tích mẹ kể con nghe, chính những lời ru ca dao đã đưa con vào thế giới sâu nặng nghĩa tình của đất nước thiêng liêng với bao truyền thống, tập quán tốt đẹp.

Từ những ảnh chụp thân quen nhưng ẩn chứa chiều sâu kiến thức văn học dân gian cùng với giọng thơ ngọt ngào đoạn thơ như lời kể chuyện tâm tình, Nguyễn Khoa Điềm đã bình dị hoá quốc gia, đất nước hoá thân vào cổ tích, ca dao, vào cuộc sống hàng ngày. Tác giả đã có một cách cảm nhận mới vừa quen vừa lạ, vùa rõ ràng vừa trừu tượng, vừa gần gũi vừa rất đỗi thiêng liêng…tạo nên sự xúc động sâu sắc. Điều đấy nói lên thành công của tác phẩm cũng như những giúp sức của Nguyễn Khoa Điềm đối vơi nền Văn học Việt Nam.

8. đo đạt 9 câu đầu đất nước – mẫu 3

chúng ta Việt Nam ta từ xưa đến nay tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm luôn chảy trong dòng máu, chuẩn bị và sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ gian khổ, có biết bao nhiêu bài thơ, bài văn ra đời để khích lệ tinh thần chiến đấu cho quân và dân ta ngoài mặt trận. Một trong số các tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước đó không thể không kể đến Trường ca mặt tiền khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mà thu hút là đoạn trích quốc gia. mở đầu đoạn trích, tác giả lí giải về cội nguồn của quốc gia vô cùng thân thương.

Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là nhà thơ với phong cách trữ tình chính luận ấn tượng. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thu hút, lôi cuốn người đọc bởi sự đan kết cảm giác nồng nàn và suy tư sâu lắng của một thanh niên tri thức tự ý thức sâu sắc về nhiệm vụ, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu vì đất nước và nhân dân. “Trường ca mặt tiền khát vọng” là một tác phẩm tiêu biểu cho cách điệu thơ văn của ông. Đoạn trích đất nước thuộc chương V của bản Trường ca. Ở đoạn trích, tác giả lí giải cội nguồn của Đất nước; và cội nguồn đó được lí giải vô cùng tinh tế qua 9 câu đầu của bài thơ:

“Khi ta lớn lên quốc gia đã có rồi
….………………………………..
quốc gia có từ ngày đó…”

mở bài đoạn thơ, tác khẳng định trực tiếp rằng đất nước này đã tồn tại từ rất lâu rồi, khi mà con người mới sinh ra trên mảnh đất của họ thì chính nơi đó là đất nước, là quê hương. đất nước ra đời từ rất xa xưa như một sự tất yếu, trong chiều sâu của lịch sử thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước đã đi vào sử sách được lưu truyền đến tận bây giờ. đất nước trước hết không hẳn là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Từ lời hát mẹ ru, từ những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể đã nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn, làm ta hiểu hơn về văn hóa của ta, theo ta đi hết cuộc đời và biến thành một phần kí ức tốt đẹp khiến ta không quên. Những câu chuyện cổ tích, những bài học đạo lí làm người, ước mơ khát vọng của nhân dân về lẽ bình đẳng được gởi gắm vào câu ca dao đó đã góp phần tạo nên quốc gia phong phú về văn hóa như vào thời điểm hiện tại.

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Nhai trầu từ lâu đã biến thành một thói quen bắt buộc phải làm của những người phụ nữ đất nước ta quan trọng là các bà, các mẹ và từ lâu dân gian ta đã có câu chuyện sự tích trầu cau đề cập về tình nghĩa con người. Từ những năm tháng trước công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần đầu trong cuộc đời nước ta mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm. Từ những câu chuyện truyền thuyết Thánh Gióng với hình ảnh nhổ cả lũy tre giơ cao đánh đuổi giặc. Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà, chăm chỉ và chất phác tuy nhiên cũng rất kiên cường bất khuất. Từ hình những ảnh thực tế, cho đến đời sống tinh thần, đó là từng bước đi lên trưởng thành của một dân tộc, của một quốc gia con người ý thức được về đất nước, về sự hiện hữu của đất nước và ý thức về việc phải có trách nghiệm bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ bờ cõi quốc gia.

Bên cạnh truyền thống về lòng yêu nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mĩ tục giản dị của con người đất nước ta :

“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”

Từ ngày xưa, hình ảnh người phụ nữ đất nước ta luôn gắn liền với mái tóc dài, được búi gọn gàng ngay sau đầu. Vẻ đẹp đấy của một người bà, người mẹ, người chị, của một người con gái nước ta mộc mạc, giản dị nhưng lại rất nữ tính, thuần hậu rất riêng. Tác giả đã vận dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” một cách hết sức tự nhiên, đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình để nói lên sự thuỷ chung ở trong chúng ta như câu nói “gừng càng già càng cay, muối càng dài hơi càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa sẽ đong đầy”.

Ngoài những phong tục tập quán và tình yêu thương của con người, Nguyễn Khoa Điềm còn nêu lên truyền thống lao động sản xuất của người dân:

“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

Từ xa xưa, chúng ta đã biết chặt gỗ mà làm nhà. Những ngôi nhà đấy dùng kèo, cột giằng giữ vào nhau vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. đấy cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có khả năng đoàn tụ, quây quần bên nhau, cùng nhau sẻ chia niềm vui nỗi buồn; từ đó khởi tạo nên làng, xóm và quốc gia. Ngôi nhà là mái ấm, là nơi con người “an cư lạc nghiệp” siêng năng tích góp của cải dồn thành sự phát triển quốc gia. Nhà thơ vận dụng khéo léo câu thành ngữ “Một nắng hai sương” để nói lên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta trong lao động sản xuất. Các động từ “xay – giã – dần – sàng” đấy là công thức sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra được hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao tháng ngày nắng sương vất vả gieo cấy, chăm sóc, xay giã và giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân vất vả nắng mưa. giá trị ngọt ngào này không chỉ giúp dân ta có đời sống no ấm mà nó còn trở thành nền văn minh lúa nước mà khi nhắc đến người ta biết ngay đến Việt Nam; không chỉ bao gồm ở đó, nền văn minh này đã giúp cho Việt Nam biến thành nước xuất khẩu gạo lớn thế hai thế giới và thế giới biết đến lúa gạo đất nước ta.

Từ tất cả các yếu tố trên, nhà thơ khẳng định:

“Đất Nước có từ ngày đó…”

“Ngày đó” là ngày nào, con người không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn hoá riêng biệt khác với đất nước khác. đó là ngày ta có đất nước của dân tộc nước ta.

thông qua việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi lệ tóc, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống làm nông nghiệp và các câu ca dao, tục ngữ cùng các thành ngữ… cùng với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình và điệp từ “Đất nước”, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho bạn đọc một cách nhìn mới mẻ về cội nguồn của đất nước; về vẻ đẹp của một đất nước giàu văn hóa cổ truyền, đất nước của truyền thống, của phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng đất nước của nhân dân.

Nhiều năm tháng qua đi tuy nhiên đoạn thơ cùng với bản trường ca “Mặt đường khát vọng” vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng đẹp đẽ, đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người nước ta trước đó, bây giờ và cả sau này. Bản trường ca của tác giả Nguyễn Khoa Điềm làm ta thêm hiểu và yêu đất nước cùng lúc đó thôi thúc bản thân hành động để bảo vệ và tăng trưởng đất nước này.

9. phân tích đất nước 9 câu đầu

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm tháng trường kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông thu hút đọc giả bởi sự cộng hưởng giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và chúng ta đất nước ta.Nổi lên cho phong cách sáng tác của ông là “Trường ca mặt tiền khát vọng”, được ông sáng tác ở chiến khu Trị-Thiên năm 1971, in xuất bản lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về trách nhiệm với non sông quốc gia và sứ mạng thế hệ mình , hơn cả là hòa mình với cuộc đấu tranh chống Mĩ xâm lược. Đoạn trích bài thơ “Đất nước” nằm ở phần đầu chương V của tường ca. 9 Câu thơ mở bài của đoạn trích là 9 câu thơ nói lên khái niệm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về quốc gia.

Với 9 câu thơ đầu tác giả đã thể hiện quan điểm mới mẻ của mình về cội nguồn đất nước.

Khi ta lớn lên quốc gia đã có rồi
quốc gia có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.
quốc gia bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
quốc gia lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
đất nước có từ ngày đó…

mở đầu trong đoạn trích, tác giả đã muốn khẳng định “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”. Chẳng biết là quốc gia khởi tạo và có từ bao giờ, chỉ biết là khi ta lớn lên thì đất nước đã có ở đây rồi. đó chính là lời khẳng định chắc chắn về sự trường tồn của đất nước.

Sau khẳng định chắc nịch về sự tồn tại của đất nước, tác giả dần dần vén màn cho ta thấy rõ hơn về nguồn gốc của đất nước:

đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.
quốc gia bắt tay vào làm với miếng trầu bây giờ bà ăn

Dòng thơ “ngày xửa ngày xưa” là mở đầu cho từng một câu chuyện cổ tích mà các bà, các mẹ hay kể chuyện cho các con cháu nghe.Cũng chẳng biết từ khi nào, chỉ biết là từ “ngày xửa ngày xưa” hình thành quốc gia đã có rồi. Những câu chuyện cổ tích truyền thuyết ra đời là từ quốc gia.

đất nước hiện diện lên trong truyện cổ. đó là hình ảnh quốc gia của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại và truyền thuyết. Với nhà thơ, hai từ “đất nước” còn bắt đầu với miếng trầu bà ăn. Người xưa thường xuyên nói “miếng trầu là đầu câu chuyện”, đấy hẳn là bởi vì tục ăn trầu là một trong những phong tục lâu đời của nước ta ta.

Hình ảnh của “miếng trầu” cũng giống như là hình ảnh của sự bắt đầu. quốc gia đã có từ khi dân mình có tục ăn trầu và tục ăn trầu của nhân dân cũng là bắt đầu cho một đất nước, bắt đầu cho một nền văn hiến.

bắt tay vào làm của một sự sống và những bước trưởng thành của sự sống đó. Sau sự bắt tay vào làm của một đất nước chính là sự trưởng thành của cả một dân tộc:

đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Từ những năm tháng trước công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần đầu trong cuộc đời Việt Nam mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm. Từ những câu chuyện truyền thuyết Thánh Gióng với hình ảnh nhổ cả luỹ tre dơ cao đánh đuổi giặc.

Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân nước ta, hiền lành, thật thà chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất. Từ hình những ảnh thực tế, cho đến đời sống tinh thần, đấy là từng bước đi lên trưởng thành của một dân tộc, của một quốc gia con người . Ý thức được về quốc gia, về sự tồn tại của quốc gia và ý thức về việc phải có trách nghiệm bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ bờ cõi đất nước.

tiếp theo đấy là những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mỹ tục giản dị của con người đất nước ta :

Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

trước tiên đó chính là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ đất nước ta. Vẻ đẹp của một người bà, người mẹ, người chị, của một người con gái mộc mạc đất nước ta, tuy giản dị nhưng lại nữ tình, thuần hậu rất riêng. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” đã vận dụng một cách hết sức tự nhiên tuy nhiên cũng là hết sức đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình con người , gợi tả lên sự thuỷ chung ở trong chúng ta như câu nói “gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa sẽ đong đầy”.

Rồi đến câu thơ “Cái kèo cái cột thành tên”, gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt ngày xưa . Nhà được làm bằng cách sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau khiến cho nhà thêm vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. đó cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có khả năng đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ máu dồn thành sự sống tăng trưởng quốc gia.

Và cả truyền thống cần cù lao động động , chịu thương chịu khó miệt mài của dân tộc ta nữa “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”.Câu thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong cần cù và lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu.

đấy chính là truyền thống lao động cần cù, miệt mài chịu thương siêng năng. Các động từ như “Xay – giã – dần – sang” đấy là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để tạo ra được hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã và giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân vất vả nắng mưa.

Và sau tất cả, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã Tóm lại “Đất Nước có từ ngày đấy … “. “Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng ngày đấy chính là ngày ta bắt tay vào làm có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn hoá. đấy là ngày ta có quốc gia của dân tộc đất nước ta.

bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi lệ tóc, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống làm nông nghiệp và các câu ca dao, tục ngữ cùng các thành ngữ… Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí thơ ca.

Điệp ngữ đất nước được khêu gợi lại rất nhiều lần cũng như việc nhà thơ bao giờ cũng viết hoa hai từ quốc gia tạo nên sự thành kính vô cùng thiêng liêng… toàn bộ đã làm nên một đoạn thơ đậm đà khung cảnh văn hóa người Việt.

Qua đoạn thơ trên nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một quốc gia giàu văn hóa cổ truyền. quốc gia của truyền thống, của phong tục tươi đẹp mang nét đặc trưng của tư tưởng đất nước của con người của nhân dân.

10. đo đạt 9 câu đầu đất nước học sinh giỏi

Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông từng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa thông tin nay đã nghỉ hưu. Các tác phẩm tiêu biểu: Đất ngoại ô, Trường ca mặt tiền khát vọng. đất nước là bài thơ được trích từ chương V trường ca “Mặt đường khát vọng” được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam xuống đường đấu tranh hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. đặc biệt thể hiện qua 9 câu thơ đầu bài.

Khác với các nhà thơ cùng thế hệ – thường tạo một khoảng cách khá xa để chiêm ngưỡng và ngợi ca quốc gia, với các từ ngữ, hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, có tính chất biểu tượng. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một quốc gia tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn chúng ta Việt.

Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình con người, từ lời kể chuyện của người mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập quán thân thuộc (tóc mẹ thì bới sau đầu) cho đến tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo ta ăn hàng ngày, cái kèo cái cột trong nhà… toàn bộ những điều đó khiến cho đất nước trở thành cái gần gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta.

Câu thơ mở bài được nhà thơ viết theo thể câu khẳng định: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”.

Theo cách diễn giải của Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất nước là một thành quả lâu bền, vĩnh hằng, quốc gia được tạo ra, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!” (Nguyễn Khoa Điềm – Tác giả và Tác phẩm). Cách nói “Đất Nước đã có rồi” đã thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. đất nước cũng giống như Trời và Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu. cũng như vậy, không biết đất nước có tự bao giờ nhưng khi ta lớn lên ta đã thấy đất nước của mình rồi, nó có mặt quanh ta với những gì yêu thương nhất.

Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả vẻ đẹp của đất nước trong chiều sâu văn hóa, phong tục. Những từ ngữ như đất nước “có trong”, đất nước “bắt đầu” là những từ ngữ diễn đạt rất nhẹ nhàng về sự ra đời của Đất Nước:

đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
đất nước bắt tay vào làm với miếng trầu bây giờ bà ăn

Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để diễn tả về đất nước. so với trẻ thơ, đất nước thân thương qua lời kể “Ngày xửa ngày xưa” của bà của mẹ… có nghĩa là quốc gia đã có từ rất sớm đời. quốc gia có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ hiện diện trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy đất nước có mặt trong truyện cổ. đấy là đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mỹ và lớn lên ta biết yêu quốc gia con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:

Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần

(Truyện cổ nước mình)

không chỉ “có trong những cái ngày xửa ngày xưa”, Nguyễn Khoa Điềm còn nắm rõ ràng cái buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà Việt Nam. đó là phong tục ăn trầu: “Đất Nước bắt tay vào làm với miếng trầu bây giờ bà ăn”. quốc gia lớn lao, kì vĩ sao lại chứa đựng trong một miếng trầu bé nhỏ? Hình thức câu thơ chứa đựng sự phi lí nhưng lại hoàn toàn hợp lí bởi tất cả những điều lớn lao đều bắt nguồn từ những điều bé nhỏ. Ví vẫn chưa có những dòng suối nhỏ sao biến thành dòng sông, ví như vẫn chưa có những dòng sông sao có thể biến thành biển cả. Cho nên đề cập đến “miếng trầu” chắc hẳn là đề cập đến một điều sâu thẳm. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu chuyện này mà nên. Như Vậy coi như là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời. Hoàng Cầm trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” cũng từng đề cập đến nét đặc trưng ấy:

Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng

Một đất nước không thể thiếu truyền thống mà một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.

Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước qua ý thơ “Đất Nước lớn lên…”. Chữ “lớn lên” là để chỉ sự trưởng thành của quốc gia. Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, mới lên ba đã biết xông pha trận mạc. Đứa bé ấy đã vươn vai trở thành chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc. Từ đấy, Thánh Gióng biến thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ nước ta kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tố Hữu cũng đã có thơ:

Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi

(Tố Hữu)

Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải chăng, đấy chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử đất nước ta dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi…

Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre đất nước ta. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình tuy nhiên cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc “Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ”, bởi:

“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”.

Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:

Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

đấy là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ nước ta, không ai khác là những người mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gợi nhớ ca dao:

Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh

Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu gắn dòng suy tưởng đến con người nghìn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đấy đạo lí ân nghĩa thủy chung đã biến thành truyền thống nghìn đời của dân tộc: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:

“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng bao giờ quên nhau”

Hay:

“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”

Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi tả lên được ân nghĩa thủy chung ở đời. Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng dài hơi năm càng mặn. Quy luật trong tình cảm con người là chúng ta sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính Vì vậy mà quốc gia còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu… đi vào năm tháng. Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”.

Câu thơ gợi nhắc cho người coi nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ về nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. đấy cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời.

Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương siêng năng “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Câu thơ gợi nhắc bài ca dao:

Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương siêng năng. Để tạo ra hạt gạo ta ăn hàng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân bao đời nay.

Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: quốc gia có từ ngày đấy. “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ tuy nhiên chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa có nghĩa là có quốc gia. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng mong muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của đất nước ta, mong muốn yêu đất nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là đất nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.

Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng hình thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ… tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà khung cảnh văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình tuy nhiên vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.

Tóm lại, bằng cảm nhận rất đỗi thân thương, gần gũi. Nguyễn Khoa Điềm đã Đem lại cho con người một hình ảnh quốc gia bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp. Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.

11. Cảm nhận 9 câu thơ đầu bài đất nước

đất nước, đã từ rất sớm, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Được khơi nguồn từ chủ đề quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có cho mình một lối đi riêng. Nguyễn Khoa Điềm từng chia sẻ: “Đất nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh hùng nhưng với tôi là của những chúng ta vô danh, của nhân dân”. “Tôi cố gắng thể hiện hình ảnh đất nước giản dị, gần gũi nhất”. Rút ra từ trường ca “Mặt đường khát vọng”, đoạn trích “Đất nước”là sự kết tinh của những sáng tạo độc đáo, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Với 9 câu thơ mở bài, nhà thơ đã đưa người coi trở về với lịch sử của dân tộc để giải đáp cho câu hỏi quốc gia có từ bao giờ:

Khi ta lớn lên quốc gia đã có rồi

quốc gia có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

quốc gia có từ ngày đó…

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ thơ năm chống Mĩ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư. Bài thơ quốc gia là một đoạn trích tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. quốc gia là phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” – tác phẩm được ra đời vào năm 1971, giữa lúc của kháng chiến chống Mỹ diễn ra khốc liệt.

đất nước bắt đầu từ một cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:

Khi ta lớn lên quốc gia đã có rồi

quốc gia có trong những “cái ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể

quốc gia bắt đầu với miếng trầu bà ăn bây giờ

quốc gia lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

đất nước vốn là giá trị bền vững, vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền từ đời này, sang đời khác: Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi. Đứng trước một đất nước thiêng liêng như thế, lòng thơ dâng trào niềm xúc động và thành kính. Hai từ “Đất nước” được viết hoa một cách trang trọng. đấy là cách mà nhà thơ thể hiện niềm tự hào và lòng thành kính trước quốc gia của mình. Khi ta cất tiếng khóc chào đời, khi ta lớn lên, quốc gia đã hiện hữu. đất nước có từ bao giờ/ Suy ngẫm về cội nguồn của quốc gia, Nguyễn Khoa Điềm bỗng phát hiện: quốc gia có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ kể/ quốc gia bắt tay vào làm với miếng trầu bà ăn. Mẹ quốc gia vừa cổ kính lâu đời vừa bình dị, mộc mạc hiện ra trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm. đất nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt. Từ truyện cao dao, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc.

Cùng với tục ăn trầu, quốc gia còn, luôn đi chung với những phong tục khác:

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cái kèo, cái cột thành tên

Thân thương, mộc mạc biết chừng nào là búi tóc sau đầu của mẹ, là những nếp nhà dựng lên từ cái kèo, cái cột, mái lá, tường rơm, vách đất; là cách đặt tên con giản dị nôm na. Mộc mạc, thân thương vật như đấy cũng thuộc một phần của quốc gia. Và quốc gia lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Hình ảnh quốc gia thật quen thuộc với những lũy tre xanh rì, những búp măng non bật mình vươn thẳng. có khả năng thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây trẻ trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của con người đất nước ta. Từ “lớn lên” được dùng rất chính xác, rạo rực sự tin tưởng, niềm tự hào dân tộc. Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy từ về cội nguồn quốc gia giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn đất nước bằng những ảnh chụp bình dị, quen thuộc đã khẳng định rằng:Đất nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong đời sống mỗi người.

Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước còn ẩn mình trong những vật nhỏ bé nhất. đất nước ẩn mình trong hạt muối, nhánh gừng; đằm sâu trong tình thương mẹ cha: Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Được chắt lọc từ văn hóa dân gian, câu thơ trầm tích những ý từ xâu xa. Dù sống cuộc sống thiếu thốn, gian khổ, cha mẹ ta vẫn thương yêu nhau như gừng cay muối mặn, vẫn gắn bó trước sau, mặn mà, đinh ninh. đất nước mình giản dị thân thương là thế. Hình ảnh quốc gia còn có trong từng bông lúa, củ khoai: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng. Hình ảnh thơ giản dị tuy nhiên gợi ra tập quán sản xuất luôn đi chung với văn minh lúa nước của dân tộc Việt Nam. Để làm ra hạt gạo trắng ngần, bát cơm thơm, người nông dân phải dầm sương, dãi nắng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tỉ mỉ xay, giã, dần, sàng. Hình ảnh thơ gợi lên bao sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn cùng phẩm chất cần cù, siêng năng của những người chân lấm, tay bùn.

9 câu thơ đầu khép lại bằng tứ thơ khái quát về thời điểm khởi tạo Đất nước: đất nước có từ ngày đấy. Ngày đó vừa là trạng từ chỉ thời gian trong lịch sử vừa là một phép thế đại từ. Vậy là quốc gia có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung. Lịch sử đất nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết mấy.

Đoạn thơ chín câu, tám lăm chữ đầy bình dị, thân quen với đời sống. Tính triết lý trong dòng suy tưởng của Nguyễn Khoa Điềm vừa sâu sắc vừa đầy sức đáp ứng. Chỉ vài dòng thơ ngắn và tinh tế, thi nhân đã đi đến một kết luận có tính khẳng định “Đất nước có từ ngày đó …” và do nhân dân lao động tạo ra nên, để cho con người hôm nay được thụ hưởng hạnh phúc một cách cụ thể thiết thực, chứ không hề là một tình cảm thuần tuý mơ hồ đã thuộc về quá khứ.

12.Phân tích Đất nước hay đạt học sinh giỏi

Đất nước – đề tài muôn thuở trong thi ca và nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh, tình yêu đối với đất nước lại càng tỏa sáng và rực cháy trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác trong bối cảnh ấy.

Khi nhắc đến văn chương thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta biết những nhà thơ trong thời kỳ này như Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật… họ viết về hào khí của cả một dân tộc:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
mà lòng phơi phới dậy tương lai.”

Một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn chương Việt Nam ngày ấy phải kể đến một nhà thơ đã trưởng thành trong cuộc kháng chiến trường kỳ nhưng nhất định thắng lợi của dân tộc – đó là Nguyễn Khoa Điềm.

Khi nói đến Nguyễn Khoa Điềm, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đều không thể quên phong cách thơ ông là phong cách thơ trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Một trong những kiệt tác của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến đoạn trích “Đất nước” thuộc chương V của “Trường ca mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.

Tác phẩm đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của nhân dân”, do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời trên cả 3 bình diện: chiều rộng của không gian địa lý chiều dài của lịch sử và chiều sâu văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm những câu hỏi “Đất nước này là do ai làm ra? Sẽ do ai bảo vệ và gìn giữ muôn đời?” Để trả lời cho những câu hỏi ấy, Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của mình để đi tìm về cội nguồn của đất nước.

Khi nói đến vẻ đẹp của đất nước trên bình diện của chiều sâu văn hóa, ta phải hiểu văn hóa là những giá trị mà con người ở 1 vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị tinh thần cũng có thể là giá trị phi vật thể. Nguyễn Khoa Điềm nhìn nhận người Việt Nam không chỉ ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở mà còn truyền và bảo vệ cho nhau những hạt giống dân ta, những vẻ đẹp mang đậm cốt cách của con người Việt Nam được truyền từ đời này sang đời khác, từ trái tim của người già sang lồng ngực của người trẻ, đó là vẻ đẹp mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam ta. Đất Nước bắt đầu từ một cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:

Cấu trúc câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” đã hữu hình hóa quá trình phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử, đất nước tựa như một sinh mệnh sống với nội lực mãnh liệt. Nghệ thuật liệt kê là biện pháp chủ đạo quán xuyến toàn bộ bài thơ, góp phần khắc họa đất nước bình dị, gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, làng xóm. Đất nước là một phần máu thịt trong kí ức của mỗi con người.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”

Nhà thơ ngược dòng cảm xúc của mình về với những cái ngày xửa ngày xưa, đưa ta về miền cổ tích diệu kì từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, tâm hồn ta, cho ta những bài học nhân sinh về lẽ sống nhân hậu, sống nghĩa tình, sống yêu thương, đùm bọc, chở che nhau.

“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn”

Đó là tục nhuộm răng, tục nhai trầu của người già. Đồng thời đó cũng là câu ca dao tục ngữ “miếng trầu là đầu câu chuyện”, là sự tích trầu cau, là vẻ đẹp của người già Việt Nam. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt. Từ truyện ca dao, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc. Tiếp đến, nhà thơ như một người hướng dẫn đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe lại sự tích Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân.

“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Hình ảnh dân ta trồng tre đánh giặc không chỉ được lặp lại 1 lần mà còn xuyên suốt 90 câu thơ hình ảnh này được lặp lại tới ba lần, đó là biểu tượng cho truyền thống yêu nước, đánh giặc giữ nước của nhân dân Việt Nam. Có thể thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Từ “lớn lên” được dùng rất chính xác, rạo rực niềm tin, niềm tự hào dân tộc.

Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy từ về cội nguồn Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh bình dị, thân thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong đời sống mỗi người. Câu thơ: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” nhắc đến chúng ta nghe về thứ tập tục làm nên nét riêng của người phụ nữ VN truyền thống.

Đất nước trưởng thành từ những giọt mồ hôi tần tảo dầm mưa dãi nắng. Hạt thóc, hạt gạo thấm mồ hôi, thấm nhọc nhằn nuôi lớn biết bao những thế hệ. Đất nước lớn lên từ những gian khổ của cha và từ những lo âu của mẹ: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Đó là chất liệu của ca dao tục ngữ, đó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng đá, là lối sống thủy chung, son sắt của những cặp vợ chồng Việt Nam.

Câu thơ “Cái kèo, cái cột thành tên” nói đến tục đặt tên con xấu cho dễ nuôi. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ tám “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” chỉ ra những bước để tạo ra hạt gạo – một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn bảo vệ hạt giống, cốt cách con người Việt Nam. Những vẻ đẹp do cha mẹ truyền cho con tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho con cháu lối sống và nếp nghĩ thông qua ca dao tục ngữ.

Và chính nhân dân là những người đã truyền lại những vẻ đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần tác giả nhận ra: “Đất Nước có từ ngày đó…”, ta không biết ngày đó là ngày nào chỉ biết đó là từ rất xưa, rất xa. Chỉ biết rằng đất nước có từ lúc những huyền thoại, truyền thuyết, từ lúc dân tộc hình thành phong tục tập quán, từ lúc dân Việt mình không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng và dùng bàn tay lao động để xây dựng đất nước.

“Ngày đó” vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ. Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết trồng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung.

Như đã nói ở trên, Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, là một trong những nhà thơ đã xẻ dọc chiều dài của mảnh đất hình tia chớp. Trước hết, khi nói về chiều rộng của không gian địa lý ta phải hiểu địa lý là tất cả những yếu tố về mặt tự nhiên trên một đơn vị diện tích lãnh thổ đất nước. Là một nhà thơ đã đi hết chiều dài của mảnh đất hình chữ S, ông hiểu từng đại danh và vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất NướcNhững núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

Ấn tượng ban đầu của chúng ta khi đọc tám câu thơ là ta như bị chìm ngập trong không gian cổ tích diệu kỳ thần thoại. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, các sự tích như “núi vọng phu”, hay “hòn Trống Mái”.

Một lần nữa tác giả như một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe sự tích thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân. Đó là truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Mỗi một dòng thơ tuy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng điệp từ “góp”.

Ta có thể chia đoạn thơ dọc theo từ “góp” sẽ được hai nửa diễn tả theo tương quan đối lập. Nửa trước nói về nhân dân, lời thơ mộc mạc, bình dị, cảm xúc, có pha chút ngại ngùng, xót thương. Trái lại, nửa sau từ “góp” lại nói về đất nước, lời thơ lộng lẫy những sắc màu muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật tương phản này chính là bài ca ca ngợi sự hi sinh của nhân dân để tạo nên đất nước huy hoàng. Đằng sau mỗi địa danh là một tên gọi, đằng sau mỗi tên gọi là một huyền thoại và sau những huyền thoại là cuộc đời của những con người. Nhân dân làm nên đất nước, đó là những cặp vợ chồng thủy chung, là những anh hùng, những người lính quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, là những người học trò nghèo nghiền bút, là ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm… Hơn thế nữa, nhân dân còn là những cái tên bé nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng những hình ảnh con cóc, con gà.. Trong nhân dân còn có những nhân vật mà chỉ nhắc đến ta đã thấy hùng vĩ thiêng liêng, ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” phúc quanh núi Hy Cương hay “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Nhân dân ta đa dạng là thế, đông đảo là vậy mà chỉ làm một việc chung và thống nhất: góp sức chung lòng để xây dựng nên đất nước Việt Nam ta. Nhà thơ sử dụng điệp từ “góp” thật ấn tượng, gợi sự kiên trì, bền bỉ, ý chí thống nhất, tình đoàn kết trăm người chung một việc: góp phần kiến tạo nên không gian huy hoàng cho nhân dân. Nhân dân đã góp sức, góp sự đoàn kết và góp cả máu xương, cả tính mạng, góp tên tuổi, góp tài hoa. Nhờ đó mà thế hệ chúng ta mới có được một đất nước hữu hình – đất nước của những anh hùng.

Nguyễn Khoa Điềm có nhắc đến những địa danh không tên. Có người đã từng nói “đất hoang là đất không tên”. Việc đặt tên cho một địa danh là vô cùng quan trọng, không thể làm tùy tiện. Có không ít những địa danh đã soi bóng trong thơ ca dân tộc nhằm ca ngợi núi sông hùng vĩ, địa linh nhân kiệt.

Nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đi theo hướng đó, ông lại diễn tả sự sinh sôi của các địa danh đó vì ở đó có lòng chung thủy, sự gắn bó, có máu xương, có tài hoa, có tên tuổi, có linh hồn của nhân dân. Đây là kết quả của sự hi sinh bền bỉ to lớn của nhân dân. Có thể nói, tám câu thơ đều đã giúp người đọc thấy được sự kỳ diệu của thế hệ trước. Nó giống như một bông vàng chói lọi mà tổ quốc gọi công cho nhân dân – người đã hi sinh để làm nên tác phẩm kỳ diệu là nhân dân ta.

Nếu như tám dòng thơ trước tưng bừng những màu sắc lấp lánh, hình tượng đầy chất thơ thì bốn câu thơ sau lại là những cảm xúc chứa đựng đầy suy ngẫm của lối nói chính luận xen lẫn sự trầm ngâm của một trí thức.

Trước hết ta đến với hai câu thơ:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”

Được viết liền mạch theo lối vắt dòng và diễn tả bằng lối phủ định để khẳng định. Nó giống như một tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức tranh luận để khẳng định mạnh mẽ những hi sinh to lớn của nhân dân. Tiếp đến, câu thơ thứ ba: “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ như không giấu nổi lòng mình, bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh vĩ đại của nhân dân.

Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử dân tộc, bốn nghìn lớp cha ông đều chiến đấu, đời cha đi trước, đời con đi sau, cha con đều là những đồng chí đồng đội chiến đấu vì độc lập dân tộc. Kết thúc đọan thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…” bởi có sự chuyển đổi. Những câu thơ trước đó mỗi dòng đều có từ mười ba đến mười lăm âm tiết nhưng ở câu thơ cuối lại chỉ vỏn vẹn trong tám âm tiết. Đó như một sự trầm ngâm, một sự đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó, nó còn được kết thúc bởi hai thanh bằng như một lời hạ giọng để suy tư in dấu vào âm hưởng. Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ như một phút lặng của long người trước những xáo trộn của tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là câu thơ thật hàm súc.

Cuộc đời của những con người tuy ngắn ngủi hữu hạn là thế nhưng lại hóa thành núi sông ta, gởi những cái hùng vĩ vô hạn, vĩnh hằng bất biến. Đây chính là sự biến đổi phi thường khẳng định nhân ta thật kỳ diệu! Họ chẳng những hóa thân để làm nên hình hài đất nước mà còn làm nên linh hồn đất nước.

Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của lịch sử. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà sử gia chính thống, là một quan đại thần dưới triều Lê, ông là một nhà chép sử, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử Việt Nam là sự tiếp nối của các triều đại, của các đời vua:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.

Nhưng ngược lại, Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia chính thống. Đoạn thơ có lẽ mang đậm màu sắc lịch sử nhất trong toàn bộ thi phẩm này ta phải kể đến:

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước”
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con”

Nếu như Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu và nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn lớp người Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của những con người vô danh:

“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”

Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời họ:

“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi người yêu văn chương vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông trong bài thơ “Báng súng”:

“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.

Chính nhân dân đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam thì đó là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân. Cũng như vậy, ta lại nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân:

“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng
Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”

Không một dòng địa chỉ, cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng những con người ấy vẫn nguyện ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở nguyện ngã xuống để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.

Hay như triết gia người Đức – Engels đã từng nói: “Nếu như không có máu, mồ hôi và nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao, vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, dân ca, truyện cổ : Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại. Câu thơ hai vế song song là một cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà cũng thật độc đáo. Nền văn hóa của Đất Nước Việt Nam là nền văn hóa của Nhân dân, do Nhân dân sáng tạo nên. Trong nền văn hóa ấy, ca dao thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước, đặc biệt là đời sống tâm hồn của nhân dân.

Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý tứ và hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng lại trở thành một câu thơ, một ý thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài để từ đó khẳng định: Con người Việt Nam say đắm trong tình yêu.

Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.

Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta phần nào nhận thấy đặc điểm của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận với trữ tình, giữa suy tưởng với cảm xúc cùng ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm lòng sứ điệp” để ta thêm yêu và tự hào vể Đất Nước Việt Nam 4000 năm lịch sử. Qua đó ta có thể thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hoá, “Đất nước này là của nhân dân”, sẽ do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chưng cất, lắng ủ và lên men trong tiếng thơ của mình, vẻ đẹp duyên dáng nhuần nhị của những thi liệu văn hóa văn học dân gian. Sự nhất quán trong toàn bộ đoạn thơ với những câu thơ dài ngắn đan xen nhau như sự tan chảy của dòng cảm xúc, sự miên man của dòng suy tưởng. Xuyên suốt toàn bộ bài thơ 2 chữ “Đất nước” luôn được viết hoa 1 cách trang trọng, lặp đi lặp lại tựa như 1 nốt chủ âm trong bản trường ca về non sông gấm vóc. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, cùng trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ được viết theo lối trường ca, kể lể, liệt kê, khó đọc khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong tác phẩm này ông xứng đáng là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của văn chương Việt Nam ngày ấy. Đồng thời, “Đất nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của người yêu văn chương suốt bấy nhiêu lâu nay về đề tài tình yêu quê hương, tình yêu đất nước và có giá trị cho đến ngày hôm nay

Tổng kết

Trên đây là những phân tích về bài thơ đất nước được HUA Tổng hợp gửi tới các bạn học sinh. hy vọng với những thông tin trên sẽ giúp bạn có được những đoạn phân tích chuẩn xác hay nhất để có thể đạt được những con điểm thật cao nhé!

Tags: Bài Phân tích Đất nước
Quốc Thanh

Quốc Thanh

Related Posts

học cắt may cơ bản
Học tập

Hướng dẫn tự học cắt may cơ bản tại nhà cho người mới bắt đầu

21/12/2022
địa chỉ học cắt may tại hà nội
Học tập

TOP 10 địa chỉ học cắt may tại Hà Nội uy tín nhất

21/12/2022
học cắt may cơ bản tphcm
Học tập

TOP 10 trung tâm dạy học cắt may cơ bản TPHCM chất lượng nhất

21/12/2022
Next Post
hot girl trần thanh tâm

Hot girl Trần Thanh Tâm là ai? Tổng hợp drama của Trần Thanh Tâm

Đáp án trắc nghiệm Module 6

Đáp án trắc nghiệm Module 6 Chuẩn xác nhất

Độc lạ Bình Dương là gì

Độc lạ Bình Dương là gì? câu nói HOT mạng xã hội

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Follow Us

  • 121 Followers

Recommended

địa chỉ thường trú là gì

Địa chỉ thường trú là gì? Cách ghi địa chỉ thường trú đúng

1 tháng ago
bộ vest nữ cách điệu

14 kiểu bộ vest nữ cách điệu trẻ trung HOT nhất 2022

2 tháng ago
cách tìm tiệm cận đứng

Cách tìm tiệm cận đứng bằng máy tính Casio đúng 100%

2 tháng ago
cách làm bùa may mắn

Hướng dẫn cách làm bùa may mắn trong học tập và cuộc sống

1 tháng ago

Instagram

    Please install/update and activate JNews Instagram plugin.

Categories

  • Chưa phân loại
  • Có thể bạn chưa biết
  • Handmade
  • Hình Ảnh
  • Học tập
  • Kiến thức
  • Kỹ Thuật Trồng Cây
  • Là Ai
  • Làm tóc
  • Nail
  • Phim ảnh
  • Quán cafe
  • Thời trang
  • Tin Tức

Topics

Bùa may mắn trong học tập Bảng màu nhuộm tóc nam bắn pháo hoa tết dương lịch 2023 bắn pháo hoa tết dương lịch 2023 bình dương chồng của con gái phú cường là ai con rể đại gia phú cường là ai con trai đại gia phú cường Cách cắt may quần giả váy Cách cắt may quần giả váy dài Cách cắt quần giả váy xếp ly Cách cắt Quần Váy xòe Cách cắt tóc mái 2 bên Cách cắt tóc mái bay layer Cách hack ff Cách tìm tiệm cận đứng tiệm cận ngang Cách vẽ bùa may mắn trong học tập bằng giấy Cách vẽ bùa may mắn trong thi cử Cách vẽ xe buýt Cách vẽ xe hơi đẹp nhất Cách vẽ xe máy Cách vẽ xe ô To Lamborghini Cách vẽ xe ô to mơ ước Cách Vẽ xe ô to tải Cách vẽ xe ô To đơn giản cách vẽ xe ô tô Cách vẽ xe đua lịch bắn pháo hoa 2022 lịch bắn pháo hoa 2022 tphcm lịch bắn pháo hoa 2023 hà nội lịch bắn pháo hoa 2023 tây ninh Lớp học cắt may miễn phí Mẫu nail đơn giản cho móng ngắn Mẫu nail đơn giản sang trọng Nhuộm tóc màu xanh dương Nhuộm tóc màu xanh khói Những mẫu nail đẹp cho móng dài Những mẫu nail đẹp cho móng ngắn Những mẫu nail đẹp nhẹ nhàng 2022 quán cafe ngắm pháo hoa ở TPHCM 2023 tiểu sử đại gia phú cường Tự may quần váy đơn giản Vẽ bùa may mắn trong cuộc sống Vẽ bùa may mắn trong học tập Vẽ bùa may mắn đơn giản đại gia phú cường có mấy người con
No Result
View All Result

Highlights

Khoảnh khắc chuột là gì? Nguồn gốc của xu hướng Khoảnh khắc chuột trên Tiktok

1000+ Hình nền Tết 2023 đẹp, cực chất và chất lượng Full HD

Top 10 ý tưởng chọn quà Tết 2023 ý nghĩa và độc đáo nhất

Tổng hợp những lời chúc Tết 2023 hay và ý nghĩa nhất

Vợ Phạm Minh Chính là ai? Tiểu sử vợ thủ tưởng Phạm Minh Chính

Quách Thái Công là ai? Gia thế của nhà thiết kế “triệu đô”

Trending

Cách Soi Cầu Rồng Bạch Kim
Kiến thức

Cách Soi Cầu Rồng Bạch Kim 4/1/2023 đơn giản

by Quốc Thanh
04/01/2023
0

Cách Soi Cầu Rồng Bạch Kim là một trò tiêu khiển chơi vui; nó còn là “cái nghiệp” đối...

kiều văn thái bị bắt

Chi tiết vụ việc Kiều Văn Thái bị bắt và nguyên nhân vụ việc

03/01/2023
Cách viết Bản kiểm điểm đúng chuẩn kiểu mẫu cho Học sinh năm 2023

Cách viết Bản kiểm điểm đúng chuẩn kiểu mẫu cho Học sinh năm 2023

29/12/2022
Khoảnh khắc chuột là gì? Nguồn gốc của xu hướng Khoảnh khắc chuột trên Tiktok

Khoảnh khắc chuột là gì? Nguồn gốc của xu hướng Khoảnh khắc chuột trên Tiktok

28/12/2022
1000+ Hình nền Tết 2023 đẹp, cực chất và chất lượng Full HD

1000+ Hình nền Tết 2023 đẹp, cực chất và chất lượng Full HD

28/12/2022
HUA Edu

We bring you the best Premium WordPress Themes that perfect for news, magazine, personal blog, etc. Visit our landing page to see all features & demos.


LEARN MORE »

Bài viết mới
  • Cách Soi Cầu Rồng Bạch Kim 4/1/2023 đơn giản 04/01/2023
  • Chi tiết vụ việc Kiều Văn Thái bị bắt và nguyên nhân vụ việc 03/01/2023
  • Cách viết Bản kiểm điểm đúng chuẩn kiểu mẫu cho Học sinh năm 2023 29/12/2022
Categories
  • Chưa phân loại
  • Có thể bạn chưa biết
  • Handmade
  • Hình Ảnh
  • Học tập
  • Kiến thức
  • Kỹ Thuật Trồng Cây
  • Là Ai
  • Làm tóc
  • Nail
  • Phim ảnh
  • Quán cafe
  • Thời trang
  • Tin Tức
[mc4wp_form]
© 2018 JNews – City News Magazine WordPress theme. All rights belong to their respective owners.nJNews is a top selling 2018 WordPress News, Blog, Newspaper & Magazine Theme.
No Result
View All Result
  • Home

© 2023 JNews - Premium WordPress news & magazine theme by Jegtheme.